TÔ THÙY YÊN, LÁ RƠI VỀ CỘI - Nghiêm Nguyễn

07 Tháng Sáu 20198:09 CH(Xem: 3006)


Tô Thùy Yên, lá rơi về cội


To Thuy Yen
                                                                   

Nhà thơ Tô Thùy Yên

 

  “…Sự ra đi của ông là một mất dấu của văn chương miền Nam. Rồi sẽ không còn ai nữa trong mươi năm tới. Nỗi buồn này vì vậy, nhiều hơn là nỗi buồn về một nhà thơ lớn tuổi vừa qua đời.” Nhà thơ Phan Nhiên Hạo thuộc một thế hệ trẻ hơn đã viết trên Facebook sáng thứ Tư, sau khi hay tin thi sĩ Tô Thùy Yên đã giã từ trần thế vào lúc 9:15tối thứ Ba, 21 tháng 5, 2019 tại Houston, Texas, hưởng thọ 81 tuổi.

Tô Thuỳ Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, là cựu học sinh Petrus Ký và Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông dạy học, làm báo tại Sài Gòn và mang cấp bậc Thiếu tá trong quân đội miền Nam trước 1975.

Sau 1975 ông bị chế độ Cộng Sản giam trong tù 13 năm vì là sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc thiếu tá và vì tội làm thơ. Năm 1993, ông cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư theo diện cựu tù nhân chính trị.

Ông là tác giả thành danh rất sớm, từ năm 16,17 tuổi đã có văn thơ thường xuyên đăng trên các báo. Tô Thuỳ Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các hoạ sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo mà ông là người miền Nam duy nhất trong nhóm. Bài thơ “Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu” ông sáng tác năm 1956 khi còn là một thiếu niên có thể xem như một khởi đầu, báo hiệu cho một tinh đẩu sáng chói vừa xuất hiện trên bầu trời văn học miền Nam Việt Nam. Đó không phải là một bài thơ tình học trò với những rạo rực yêu đương, mộng tưởng, nhớ nhung lẩm cẩm - mà lại là một bài thơ đẫm triết lý; không phải là một thứ triết lý vớ vẩn, mà là chứa chất một cái nhìn rất bao quát. Toàn bài là một bức tranh sinh động, rất đẹp, rất hoành tráng và chấm dứt bằng một bi kịch đầy ấn tượng: tàu chạy mất và con ngựa thì gục ngã. Một gục ngã êm đềm, thẩm mỹ, một ẩn dụ triết lý tuyệt vời.

Tô Thùy Yên làm nhiều thể loại thơ: thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ xuôi, thơ tự do, thơ lục bát, thơ phá thể. Có bài rất ngắn, “Tặng Phẩm,” chỉ có 14 chữ; có bài rất dài, “Mùa Hạn,” gồm đến 188 câu, 1,326 chữ. Một trong những đặc điểm của thơ Tô Thùy Yên là sự pha trộn giữa truyền thống và cách tân, bên cạnh những từ ngữ mang hơi hướng hiện đại như mặt trời con, lịch sử sanh cầm, sự can trường của hiện hữu…. ông lạixử dụng những chữ rất cổ điển như thiên thu, phù du, vạn cổ….  Chẳng hạn như "Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô", ta lại đọc thấy "Có gã hề cuồng ra giữa chợ/Hát ngao những đoạn sấm truyền xưa“.Thêm vào đó, cũng như Trịnh Công Sơn, ông sáng tạo nhiều từ ngữ mới lạ. Nếu ở TCS, ta có nào là: tuổi đá buồn, vết lăn trầm, lời buồn thánh, nắng khuya, hạ trắng…thì ở thơ Tô Thùy Yên chúng ta có: lãng quên xanh, u hoài mốc, mịt mùng nghi hoặc, lưu cữu gió….

Thơ của ông mang nhiều khái niệm, hình tượng triết lý, siêu hình nhưng lại không thiếu những hình ảnh rất hiện thực. Đó là phong cách độc đáo của thơ Tô Thùy Yên.

 Nhiều người cho rằng Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành, Ta Về... là những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ chính khí, chính luận thì đúng hơn.

Chiều trên phá Tam Giang đặt vấn đề về chiến tranh, tình yêu và thân phận con người trong giòng trôi nghiệt ngã của lịch sử. 

 Đề cập về thân phận người lính trong cuộc chiến:

Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
     Phải quạt, phải quạt
     Ta thương ta yếu hèn
    Ta thương người khờ khạo
    Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
  Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử”

 

 Và về tình yêu:

  Giờ này có thể trời đang nắng
 Em rời thư viện đi rong chơi
 Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi

 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh lấy một phần bài thơ mang ra phổ nhạc rất được nhiều người ưa thích.

Một kiệt tác văn chương khác được ông sáng tác trước năm 1975 nhưng ít người biết đến hơn là bài Trường Sa hành.

Tháng Ba năm 1974, hai tháng sau khi Trung Cộng cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đưa một phái đoàn đi thăm một đảo trong quần đảo Trường Sa; chắc để ủy lạo tinh thần các quân nhân đồn trú. Trong số người tham dự chuyến đi có Đại Úy Đinh Thành Tiên, tức thi sĩ Tô Thuỳ Yên. Khi trở về Tô Thùy Yên viết bài thơ Trường Sa Hành, đăng trên tạp chí Văn, ở Sài Gòn. 

  Nhưng "Hành” là gì? "Hành" là một loại thơ cổ phong có từ đời Đường, của truyền thống thi ca Trung Hoa, một số nhà phân tích, phê bình văn học cổ đã xếp thể loại “Hành” cùng với những thể cổ phong khác như “Ca, ngâm, hành, từ, khúc”. Trong thi ca VN thời tiền chiến có 2 bài hành được nhiều người biết là bài "Tống Biệt Hành" của Thâm Tâm và bài "Hành Phương Nam" của Nguyễn Bính.

 Tuy nhiên có người hiểu "Hành" một cách đơn giản hơn: Hành là đi, là đến trong từ hành trình, du hành, vi hành, bộ hành hay hành khách… Nhà văn đi và viết thì gọi là ký. Nhà thơ đi và làm thơ thì gọi là Hành. Đi Trường Sa làm thơ thì đặt tên bài thơ là Trường Sa Hành. Dù hiểu "Hành" theo nghĩa nào, bài "Trường Sa Hành" là một tuyệt tác phẩm văn học, một bản bi hùng ca trong lịch sử bảo vệ biển Đông của các chiến sĩ VNCH. Đó không phải là tiếng trống thúc quân, không là những hô hào, cổ võ chiến tranh, không có những câu thơ sặc mùi chém giết và tôn sùng lãnh tụ như của văn nô Tố Hữu:

 

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin...bất diệt.”

 

Hay

Chúng ta đang ở trên đầu chúng nó

Đại bác ta sau rèm tre ngảnh cổ

Trông xuống khoanh đồi nọ

Ngon như một đĩa thịt bò tươi

Ở dưới kia chúng nó đang cười

Cười đi nhé các con ơi rồi chết.

 

Trường Sa hành chỉ là những xúc động rất thật của người thi sĩ khi đặt chân lên một hòn đảo rất xa nhưng vẫn thuộc về đất nước mình, chia sẻ nỗi lòng những người “lính thú” đóng trên đảo.

 

“Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi. 

 

Bài thơ diễn tả tâm trạng những người lính trấn đảo nhưng cuối cùng trở về nỗi thao thức thân phận của con người.

 

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

 

Người thi sĩ không viết để tuyên truyền cho bất cứ một chế độ, một chủ nghĩa hay một cuộc chiến nào. Tô Thùy Yên cũng như các văn nghệ sĩ khác dù mặc áo lính nhưng họ được hoàn toàn tự do sáng tác theo cảm hứng, cảm xúc cá nhân riêng tư của mình. Không ai viết theo kế hoạch, theo chính sách hay chỉ thị của cấp trên, không ai chấp nhận thân phận của một bồi bút, văn nô như vẫn thường thấy ở các chế độ độc tài, Cộng Sản.

Cho tới nay, Trường Sa Hành có lẽ là bài thơ về biển đảo hay nhất của Việt Nam. Nó như một viên minh châu đang chiếu lóng lánh giữa lòng dân tộc.

Năm 1985 sau khi được phóng thích của lần đầu ở tù cải tạo10 năm, ông cảm khái những dâu bể của cuộc đời, những đảo điên của thời thế nên đã trước tác bài thơ Ta Về, một áng văn chương rực rỡ trong văn học Việt Nam. Bài thơ làm theo thể thơ 7 chữ, dài tổng cộng 126 câu thơ, trong đó có những câu được xem như tuyệt cú:

   Ta về cúi mái đầu sương điểm 
   Nghe nặng từ tâm lượng đất trời 
   Cảm ơn hoa đã vì ta nở 
  Thế giới vui từ nỗi lẻ loi 

.....................................................

  Ta về như hạc vàng thương nhớ

  Một thuở trần gian bay lướt qua.

 Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,

 Đành không trải hết được lòng ta.

 

Nhà phê bình văn học Thụy Khuê trong bài viết “Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá” ghi nhận về bài thơ và nhà thơ Tô Thùy Yên:

"Đi từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cô đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc...

“Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hùng nhào nặn thành một tâm hồn ‘tráng sĩ’ hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.

“Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về...”

Bây giờ tác giả Ta Về đã thực sự đi về, như những hạt sương trên cỏ, như lá rơi về cội. Không phải về miền đất ông đã từng bị đày đọa, chịu khổ nạn mà đến một thế giới thật an lạc, bình yên. Với kiếp người hữu hạn thì làm sao có thể “trải hết được lòng ta” dù là một tài thơ lớn như Tô Thùy Yên.

 (Tháng Năm, 2019)

 Nghiêm Nguyễn

 

 

Trường Sa hành

 

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!

Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên

Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng

Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên

Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp

Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh

San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người

(3-1974)

 

 

 

Ta Về

 

Tiếng biển lời rừng nao nức giục

Ta về cho kịp độ xuân sang.

 

Ta về – một bóng trên đường lớn.

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…

Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?

Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.

 

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp

Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu.

Mười năm, mặt xạm soi khe nước,

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

 

Ta về qua những truông cùng phá,

Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may.

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

 

Chỉ có thế. Trời câm đất nín.

Đời im lìm đóng váng xanh xao.

Mười năm, thế giới già trông thấy.

Đất bạc màu đi, đất bạc màu…

 

Ta về như bóng chim qua trễ

Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.

Ai đứng trông vời mây nước đó,

Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

 

Một đời được mấy điều mong ước?

Núi lở sông bồi đã lắm khi…

Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động,

Mười năm, cổ lục đã ai ghi?

 

Ta về cúi mái đầu sương điểm,

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.

Cám ơn hoa đã vì ta nở.

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

 

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa,

Làng ta, ngựa đá đã qua sông,

Người đi như cá theo con nước,

Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

 

Ta về như lá rơi về cội.

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.

Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,

Giải oan cho cuộc biển dâu này.

 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta.

Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,

Người thức nghe buồn tận cõi xa.

 

Ta về như hạt sương trên cỏ

Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.

Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.

Tội tình chi lắm nữa, người ơi!

 

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ.

Mười năm, người tỏ mặt nhau đây.

Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi,

Đành uống lưng thôi bát nước mời.

 

Ta về như sợi tơ trời trắng

Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.

Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?

Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?

 

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng

Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.

Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.

Mười năm, ta vẫn cứ là ta.

 

Ta về như tứ thơ xiêu tán

Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.

Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách.

Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

 

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ.

Nhà thương khó quá, sống thờ ơ.

Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ.

Khách cũ không còn, khách mới thưa…

 

Ta về khai giải bùa thiêng yểm.

Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!

Hãy kể lại mười năm mộng dữ.

Một lần kể lại để rồi thôi.

 

Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn,

Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà.

Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?

Mười năm, cây có nhớ người xa?

 

Ta về như đứa con phung phá

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.

Mười năm, con đã già như vậy.

Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu…

 

Con gẫm lại đời con thất bát,

Hứa trăm điều, một chẳng làm nên.

Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn.

Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên.

 

Ta về như tiếng kêu đồng vọng.

Rau mác lên bờ đã trổ bông.

Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng

Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

 

Ta gọi thời gian sau cánh cửa.

Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.

Ta nghe như máu ân tình chảy

Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

 

Ta về dẫu phải đi chân đất

Khắp thế gian này để gặp em.

Đau khổ riêng gì nơi gió cát…

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm.

 

Cây bưởi xưa còn nhớ trăng hoa.

Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!

Tình xưa như tuổi già không ngủ,

Bước chạm khua từng nỗi xót xa.

 

Ta về như giấc mơ thần bí

Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui.

Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng.

Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi.

 

Bé ơn, này những vui buồn cũ,

Hãy sống, đương đầu với lãng quên.

Con dế vẫn là con dế ấy,

Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen.

 

Ta về như nước tào khê chảy.

Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ.

Thân thích những ai giờ đã khuất?

Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.

 

Người chết đưa ta cùng xuống mộ.

Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao?

Khóc người, ta khóc ta rơi rụng.

Tuổi hạc, ôi ngày một một hao.

 

Ta về như bóng ma hờn tủi

Lục lại thời gian, kiếm chính mình.

Ta nhặt mà thương từng phế liệu

Như từng hài cốt sắp vô danh.

 

Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa,

Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời.

Ai đó trong hồn ta thổn thức?

Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.

 

Ta về như hạc vàng thương nhớ

Một thuở trần gian bay lướt qua.

Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,

Đành không trải hết được lòng ta.

(7-1985)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
hoa_cuc