CÂY ĐỀN MẪU ĐƠN - Lê Mạnh Hùng dịch

27 Tháng Mười Hai 20204:49 CH(Xem: 1722)
Tranh_phu_nu_Tau

Cây đèn mẫu đơn
Lê Mạnh Hùng dịch

Vào cuối đời nhà Nguyên, vào lúc Phương Quốc Trân chiếm đóng vùng Triết Đông thì cứ mỗi năm vào lúc nguyên tiêu bắt vùng Minh châu phải treo đèn năm đêm để cho tòan thành bách tính, bất kể nam nữ đều có thể tự do thuởng thức.

 
Năm Chí Chính thứ hai muơi có một vị học sinh họ Kiều sống tại duới chân núi Minh Lãnh gần thị trấn, nhân vì mới góa vợ nên ở môt mình phiền muộn thành ra không cả muốn ra khỏi nhà để xem đèn mà chỉ đứng truớc cửa nhà xem thiên hạ náo nhiệt mà thôi. Đêm ngày rằm tháng giêng, vào lúc sau canh ba, Kiều sinh bỗng trông thấy một đứa liễu hòan tay cử một cây đèn mẫu đơn hai đầu đi truớc dẫn đuờng, một cô gái đẹp đi theo đằng sau, trông tuổi vào khỏang muời bảy muời tám, mặc một chiếc váy hồng áo lục giáng điệu cực kỳ quyến rũ đang từ từ tiến về hướng tây.

  
Duới ánh trăng, Kiều sinh chú ý quan sát, chỉ thấy cô gái rất trẻ tuổi, dung mạo xinh đẹp, đúng là một con nguời quốc sắc thiên hương. Kiều sinh thần hồn phiêu hốt, không thể tự mình kiềm chế, bèn buớc đi theo chân hai người, có lúc chạy lên truớc, có lúc tụt lai phía sau. Đi đuợc khỏang chừng muời buớc, mỹ nữ đột nhiên quay đầu lại mỉm cuời nói:

“Đuơng sơ chưa từng có hẹn ước; đêm nay đột nhiên dưới trăng gặp nhau, tựa hồ như mọi chuyện đều có nguyên nhân chứ không phải là ngẫu nhiên.”

Kiều sinh nghe nói  lập tức rảo bước tiến đến truớc cô gái thi lễ rồi nói:

“Hàn xá cận tại xích thốn, liệu nguời đẹp có thể giáng lâm không?

Cô gái nghe lời chàng mời, không có vẻ gì khó khăn hoặc là cự tuỵệt, lập tức gọi liễu hòan:

“Kim Liên, nguơi hãy cầm đèn về truớc đi”

 

Thế là đứa liễu hòan tên là Kim Liên tiếp tục đi theo nguyên lộ còn Kiều sinh và cô gái, tay cầm tay tiến trở về nhà. Đến nhà, hai người cực kỳ hoan ái. Kiều sinh nhận ra rằng những chuyện cổ nguời xưa tại Vu Sơn, Lạc phố gặp thần nữ, tiên nữ hoan lạc cũng không thể hơn đuợc lúc này.

 

Kiều sinh hỏi tên họ, địa chỉ cô gái. Cô gái nói:

“Em họ Phù, tự là Lệ Khanh, tên là Thục Phương vốn là con gái cố phán quan Phụng Hóa châu. Sau khi phụ thân chết, gia đạo suy vi, lại không có anh em, thiếu cả thân thích họ hàng chỉ có em cô thân một mình, đành chỉ cùng với nữ tỳ Kim Liên tá tục tại hồ tây. Kiều sinh nghe vậy bèn giữ nàng ở lại. Cô gái phong tư diễm lệ, ngôn ngữ nhẹ nhàng dễ nghe. Tối hôm đó, hai nguời đồng sang cộng chẩm, hưởng thụ nam nữ chi tình.

 

Trời vừa sáng, thiếu nữ từ biệt ra đi; đợi đến lúc đêm đến, nàng lại quay trở lại. Cứ như vậy kéo dài vào khỏang chừng nửa tháng. Hàng xóm có một vị lão tầu thấy vậy hòai nghi, mới đào một cái lỗ bên tường để xem lén. Khi xem lén chỉ thấy một bộ xương khô ngồi cùng với Kiều Sinh duới ánh đèn, thành ra cực kỳ kinh hãi. Ngày hôm sau, ông già này bèn kêu Kiều sinh lại hỏi. Kiều sinh giữ bí mật, nhất định không chịu nói ra sự thật chân tuớng. Ông già than:

“Ôi nguơi sắp có tai họa đó! nguời ta chính vật thuần dương thịnh nhất, ma chính là con vật tà ác ô uế nhất cỏi âm. Nay nguơi cùng với ma quỷ cõi âm đồng cư mà không biết; cùng một vật tà ác ô uế cùng chung chăn gối mà không tỉnh ngộ. Một ngày nào đó tinh khí trong cơ thể tiêu hao hết, tai uơng sẽ tới. Thật đáng tiếc, đang tuổi thanh xuân niên hoa cuối cùng bị vật duới hòang thổ làm hại thật đáng buồn thay!”

Kiều sinh nghe xong những lời ấy, bất tự giác bổng cảm thấy kinh khủng, vội vàng nói với ông già tất cả đầu đuội câu chuyện. Ông già nói:

“Nó nói ở nhờ tại phía tây Nguyệt hổ, nguơi nên ra đó thăm dò thử xem. Làm như vậy có thể biết chuyện thật ra sao.”

Kiều sinh nghe theo lời khuyên. Đi tới bờ tây Nguyệt hồ, trên đê dài, dưới cầu cao đi đi lại lại, hỏi thăm dân chúng ở đó. Rồi chặn đuờng hỏi những người đi đường đều không ai biết âm hào nào cả. Trời đã trở về chiều, mặt trời muốn chìm sau răng núi, Kiều sinh mới tiến vào ngôi chủa Hồ Tâm tự nghỉ ngơi một chút. Đi hết hành lang phía đông lại chuyền sang hành lang phía tây, đến cuối hành lang này bổng thấy một căn phòng u ám bên trong có một chiếc quan tài chắc của ai chết ký gởi tại đó. Bên cạnh quan tài là một miếng giấy trắng đề một hàng chữ:

“Linh cữu con gái quan cựu phán quan phủ Phụng Hóa Lệ Khanh”

Đằng truớc quan tài treo một cây đèn hai bông mẫu đơn. Dưới cây đèn là là một thị nữ bằng giấy đứng hầu, đằng sau lưng có đề hai chữ “Kim Liên”.

Kiều sinh nhìn thấy xong cảm thấy lạnh rùng mình, râu tóc dựng ngươc lên, cả người trên dưới nổi da gà, vội vàng chạy ra khỏi chùa. Đêm hôm đó, Kiều sinh chạy sang nhà ông lão hàng xóm ngủ nhờ, mặt mũi ưu sầu khiếp sợ. Ông lão nói:

“Ngụy pháp sư tại Huyền Điệu Quán vốn là Khai phủ Vương chân nhân đệ tử. Các bùa trừ quỷ đuổi tà của ông ta vốn là thứ nhất thứ nhì hiện nay, cậu nên mau mau lên cầu ông ta.”

Hôm sau, trời vừa sáng Kiều sinh vội vã chạy lên đạo quán. Pháp sư thấy chàng đến ngạc nhiên hỏi:

“Ngươi sao trên người yêu khí nặng như vậy? Vì sao lại chạy đến đây?”

Kiều sinh tử tế kể hết mọi chuyện. Pháp sư nghe xong cho chàng hai lá chu phù, dặn chàng một lá thì đặt tại truớc cửa, một đạo để trên giường. Ngòai ra còn cảnh cáo chàng không đuợc ghé Hồ Tâm tự. Kiều sinh nhận hai lá bùa về nhà, làm đúng theo lời pháp sư. Kề từ đó về sau, cô gái không còn lui tới nữa. 

Một tháng sau, Kiều sinh đến thăm một người bạn tại Cổn Tú kiều. Người bạn giữ lại uống rượu cho đến lúc say mướt mới về. Rượu say, chàng quên hết những lời pháp sư dạy, đi thằng theo lối đi qua Hồ Tâm tự mà về nhà. Khi gần đến cửa chùa bổng thấy Kim Liên đứng trước cửa chùa chào đón, thi lễ nói:

“Nương tử đã phục thị lang quân bao lâu rồi, vì sao mấy lúc này lại bạc tình như vậy?”

Nói xong. bèn cùng Kiều sinh đi vào hành lang phía tây rồi cùng tiến vào phòng tối. Cô gái đẹp ân cần nói với Kiều sinh:

“Thiếp với chàng vốn không quen biết, ngẫu nhiên gặp nhau dưới ánh đèn, bị mỹ ý của lang quân làm cảm động nên lấy thân tương hứa. Tối đi, sáng lại, đối với lang quân quả thật không có gì bội bạc cả, vì sao chàng lại tin vào lời của tên yêu đạo đột nhiên hòai nghi, muốn vĩnh viễn đọan tuyệt lai vãng? Bạc tình đến như thế, thiếp hận chảng thật là sâu vậy! Hôm nay may được gặp gỡ, làm sao lại có thể bỏ qua cho chàng?”

Thế rồi cô gái nắm lấy tay Kiều sinh, tiến đến trước quan tài. Quan tài đột nhiên mở nắp ra cô gái cùng Kiều sinh cùng bước vào trong. Quan tài đóng nắp lại thế là Kiều sinh chết bên trong quan tài.

Ông già hàng xóm thấy Kiều sinh đi đâu mãi không về lấy làm lạ, bèn đi khắp nơi thăm hỏi. Khi đến phòng tối đụng các quan tài tại chùa thì thấy quần áo Kiếu sinh lộ ra ngòai nắp quan tài, bèn xin các sư trong chùa cho mở nắp quan tài ra thì thấy Kiều sinh nằm chết trong đó, cùng với cô gái ôm nhau mà nằm. Cô gái dung nhan trông còn sinh  động như sống.

Nhà sư trụ trì cảm khái nói:

“Đó là con gái ông phán quan châu Phung Hóa, khi chết mới có mười bảy tuổi. Đầu tiên nói xin tạm gởi tại đây, kết quả sau khi tòan gia đi về bắc đến nay đã hai chục năm hòan tòan không có tin tức gì. Không ngờ lại tác quái đến như vậy!”

Sau đó nhà chùa bèn cho chôn linh cữu cùng với Kiêu sinh bên ngòai cửa tây. Kề từ sau đó, mổi khi ban ngày trời mây âm u, hoặc là ban đêm không trăng tối ám, người ta thường thường thấy Kiều sinh cùng cô gái tay nắm tay đi lại, một con liễu hòan cầm một ngọn đèn hình hoa mẩu đơn đi trước dẫn đuờng. Ai gặp phải đều lập tức bị bệnh nặng, lúc thì nóng, lúc thì lạnh thay nhau phát tác. Nếu biết tụng kinh làm Phật sự nhờ siêu độ, dùng một bộ tam sinh cùng với rượu ngon cúng tế thì may ra khỏi hẳn, nếu không thì cứ nằm liệt giường.

Dân chúng trong vùng cực kỳ lo sợ, kéo nhau đến Huyền Diệu quán bái yết Ngụy pháp sư kêu cầu xin cứu. Pháp sư nói:

“Bùa phép của tôi chỉ có thể có công hiệu khi họa hại của ma quỷ còn chưa hình thành. Hiện tại nó đã trở thành hình, thành ra phép của tôi không còn trị đuợc nữa. Tôi nghe nói có một vị thiết quan đạo nhân, sống trên đủnh núi Tứ Minh, có tài trị đuợc ma thiêng quỷ dữ, pháp thuật đặc biệt linh nghiệm, các người hãy thử đến đó cầu xin xem.”

Mọi người nghe lời bèn kéo nhau đến núi Tứ Minh, trèo non lội suối lên đến tận đỉnh, quả nhiên thấy trên dó có một am nhà cỏ, trong nhà một vị đạo nhân ngồi trước một cái bàn đang coi đồng tử nuôi dưỡng hạc trắng.

Mọi người đến trước đạo nhân quỳ lạy, rồi nói lên duyên cớ thỉnh cầu. Đạo nhân nói:

“Ta chỉ là môt kẻ ở ẩn chốn sơn lâm, sớm muộn rồi sẽ chết, làm gì có thuật lạ nào đâu! Các người nghe người ta nói lầm rồi!”

Mọi người nói:

“Chúng tôi thật ra đâu có biết đến ngài. Nhờ Ngụy pháp sư tại Huyền Diệu quán chỉ giáo nên mới biết đến đây cầu ngài”

Đạo nhân lúc bấy giờ mới hết nghi ngờ, nói:

“Lão phu đến nay đã sáu chục năm không xuống núi rồi. Cái lão đó thật lắm mồm làm ta lại phải bận thêm một lần nữa”.

Rồi cùng với đồng tử theo mọi người xuống núi, tuy già mà chân bước đi vẫn còn thập phần lanh lợi. Đi một mạch đến trước cửa tây, cho xây một đạo tràng vuông vức mỗi chiều một trượng, trải chiếu ngồi nghiêm trang trên đó, viết một đạo bùa. Bùa vừa đuợc đốt lập tức trông tiếng thần tướng mấy người, đầu chít khăn vàng, mặc áo gấm vai mang khôi giáp, tay cầm điêu hoa trượng, ai nấy đều cao hơn một trượng, đến trước đạo tràng, hướng đạo nhân cúi đầu xin đạo nhân sai khiến thái độ hòan tòan cung kính. Đạo nhân nói:

“Nơi này có quỷ quái làm hại bách tính, các người chẳng lẽ không biết sao? Hãy mau mau bắt chúng mang đến đây”

Thần tướng nhận đuợc mệnh lệnh, lập tức ra đi. Chẳng bao lâu, thấy cô gái và Kiều sinh cùng với liễu hòan Kim Liên tòan bộ bị trói đeo gông giải đến. Trong lúc áp giải còn dùng roi đánh ba nguời đến nỗi máu chảy thịt rơi. Đạo nhân lên tiếng trách mắng môt hồi sau đó ra lệnh cho ba người hãy cứ thật tình cung khai. Các vị kim giáp thần cho mang giấy bút đến cho họ khai. Thế là mỗi người khai ra khỏang vài trăm chữ. Dưới đây là đại khái lời khai của mỗi người.

Lời khai của Kiều sinh viết:

“Tôi vì góa vợ ở quả cư, đứng dựa cửa một mình thành ra phạm vào sắc giới, xúc động lòng dục, không thể đi theo ông Tôn Thúc Ngao nước Sở thấy con rắn hai đầu vẫn giết chết để đến nỗi giống như trong truyện “Nhâm thị truyện” đời Đuờng trong đó Trịnh lục gặp và mê con hồ ly chín đuôi. Sự tình đã xảy ra có hối cũng không kịp nữa!”

Lời khai của Lệ Khanh viết:

“Tôi còn trẻ đã lìa đời, sống không thân thích, sáu khách rời thân, nhưng tinh linh còn chưa mất. Trước đèn dưới trăng, gặp lại oan gia từ năm trăm năm truớc. Thế thương nhân gian, trở thành những kẻ phong lưu trong số ngàn vạn người, si mê không biết quay đầu làm sao tránh khỏi tội!”

Lời khai của Kim Liên viết:

“Tôi vốn do cây trúc làm xương, lửa đốt làm da thịt, chôn trong phần mộ, không biết nhờ ai mà trở thành có linh hồn. Cơ quan làm cho diện mục họat dộng so với  con người chẳng khác bao nhiêu. Vốn đã có tên gọi thành ra đâu có kém yêu quá tinh linh!

Cung khai xong, các thần kim giáp giao ba người cho đạo nhân. Đạo nhân lấy cây bút lớn viết ra phán quyết:

“Nghe nói đức Đại Vũ (1) đúc đỉnh biểu tượng cho vạn vật, quỷ thần tà quái đều không có thể ẩn hình trốn tránh. Ôn Kiều (2) đốt sừng tê làm đuốc các quái vật nơi Long cung thủy phủ đều hiện nguyên hình. Âm dương su hướng bất đồng thành ra có nhiều chuyện quái dị, gặp gỡ không có lợi gì cho người cũng như có hại cho vật. Thành ra thấy ma quỷ vào nhà, Tấn Cảnh Công (3) chết. Heo lớn kêu giữa đồng Tề Tương Công (4) vong. Giáng họa thành yêu, hung tai tác quái, vì vậy trời kia mới đặt chức sứ chém ỵêu tà. Vào thuở thanh bình thế mà dám lấy thân hình huyền ảo, phụ vào thảo mộc, vào lúc tối trời mưa, trăng lặn sao thưa lúc đầu hôm, leo lên tường nhà cất tiếng la; ẩn náu nghe lén chuyện trong phòng. Vô sỉ như chó, tham tàn như lang. nhanh như cuồng phong, nóng như lửa cháy. Thằng con họ Kiều, sống không biết giác ngộ, chết rồi lại còn không biết lân mẫn. Đứa con gái họ Phù kia chết mà còn tham luyến thú vui dâm dục, nếu sống ta có thể nghĩ rằng còn như thế nào. Còn đến con Kim Liên thành quái; lợi dụng đồ minh khí mà làm chuyện hủy bang điên cuồng. Khinh thế lừa dân, vi luật phạm pháp. Ác quán mãn doanh, tôi không tha thứ. Cạm bẫy người nay đã lấp đầy, mê hổn trận nay đã bị phá. Thiêu hủy ngọn đèn song minh, giáp giải về địa ngục.

Phán quyết vừa đuợc viết xong, các vị thần chịu trách nhiệm lập tức xuất hiện. Chỉ thấy Kiều sinh, Phù Lệ Khanh, Kim Liên ba người đau đớn gào khóc, bồi hồi không chịu đi. bị thần kim giáp lôi kéo đi. Còn đạo nhân thì phất áo quay trở về núi Tứ Minh. Ngày hôm sau, mọi người lên đỉnh núi để cảm tạ đạo nhân thì chỉ thấy vắng tanh không bóng một người. Mọi người vội vã quay về Huyền Diệu quán để hỏi thăm Ngụy pháp sư thì thấy Ngụy pháp sư bổng nhiên trở thành câm, không nói gì đuợc nữa.

Chú thích:

(1)   Dại Vũ: người sang lập ra nhà Hạ. Tục truyền đời vua Thuấn Trung quốc bị lụt lớn, vua sai ông Cổn trị thủy đắp đê ngăn nước lụt càng lớn. Ông Cổn bị giết, dùng ông Vũ là con ông Cổn. Vũ đổi phép cha cho đào mương khơi going khiến nước trôi ra biển, trị đuợc nạn lụt. Nhân việc trị thủy, Vũ đi khắp nơi trong nước sau đó cho dúc chín cái đỉnh biểu tượng cho chín chây trong đó khắc hình núi non song lạch biểu tưởng cho cân vật. Sau Vũ đuợc Thuấn truyền ngôi cho lập ra nhà Hạ.

(2)   Ôn Kiều (288-329) người Đông Tấn. Tương truyền Ôn Kiều khi qua bến Ngưu Chử (nay thuộc tỉnh An Huy vồn là một chỗ quan trọng để băng qua sông Truờng Giang, thấy nuớc rất sâu nghe đồn có lắm thứ thủy quái sống tại đó, bèn sai lấy sừng tê đốt làm đuốc soi xuống nước thì thấy dưới nước đủ dạng quỷ quái hình dạng quái dị. Lại thấy có người mặc áo đổ, đi xe ngựa xuất hiện. Đêm hôm đó, Ôn Kiều nằm mơ thấy có người giận dữ đến trách “Ta với tiên sinh, người ma khác lối. vì sao lại chiếu bức ta vậy?”

(3)   Tấn Cảnh Công vua nước Tấn một nước thời Xuân Thu nay thuộc vùng Hà Bắc – Sơn Tây Trung Quốc một hôm nằm mộng thấy một con quỷ đầu bù tóc rối, răng nanh nhe ra ngòai đến trước cung điện đấm ngực la hét nói “Mày vô nghĩa. Giết con cháu ta. Ta đến đây báo cừu. Thượng đế cũng đã đồng ý lời thỉnh cầu của ta” Nói xong phá cửa cung xông vào, phá luôn cả cửa phòng ngủ. Tấn Cảnh công sợ qua chạy trốn, quỷ đuổi cho đến cùng không tha. Sau công chết.

(4)   Tề Tương công vua nước Tề (nay thuộc tỉnh Sơn đông) thời Xuân Thu. Công tư thông lọan luân với em gái là Khương thị, vợ vua nước Lỗ. E sợ mối tình lọan luân này bị vỡ lở, Tưong công sai viên lực sỹ là Công Tử Bành sinh sang giết vua Lỗ. Vua Lỗ chết, người Lỗ đòi Tề phải giao hung thủ. Tương công cho giết Bành sinh để bịt miệng. Sau Tương Công đến núi Cự Khâu, bổng thấy một con heo lớn ra chặn đuờng, xông tới chiếc xe Tương công ngồi. Tả hữu tùy tòng kinh sợ thất sắc la lớn “Đó là công tử Bành sinh”. Công giận hét: “Bành sinh sao giám mạo phạm ta.”  Rồi dương cung bắn liền ba phát không trúng. Heo tiến đến gần bổng đứng lên hai chân như người, rồi la lên mấy tiếng lớn. Công sợ quá râu tóc dựng ngược, đang ngồi trên xe té xuống đất bị thương ở chân, một chiếc giầy thêu hoa rớt ra ngòai bị heo ngậm mang đi. Heo sau đó biến mất. Sau em ruột Tương Công là Công tôn Vô Tri âm mưu cùng bọn Liên Xứng, Quản Chí Phủ nổi loạn tấn công vào cung. Tương Công trốn vào sau một cánh cửa. Giặc tìm mãi không thấy. Bổng thấy sau cánh cửa có một chiếc giầy thêu bèn lật cánh cửa ra quả nhiên thấy Tương Công tại đó. Tương Công bị giết. Chiếc giầy thẻu chính là chiếc giầy bị heo cắn mang đi. 

**********************

Chuyện cây gạo (*)

Trình Trung Ngộ là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán. Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang (1). Dọc đường, hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác, chàng cũng gặp lại, muốn kiếm một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người con gái đã xốc xiêm rảo bước, và bảo với con hầu gái:
- Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm trời, không lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm nay nên thăm qua cảnh cũ, để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em có đi theo ta không?

Con hầu vâng lời.

Trung Ngộ nghe lỏm lấy làm mừng lắm. Tối hôm ấy, chàng đến bên cầu chờ sẵn. Đêm khuya người vắng, quả thấy người con gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài mà nói rằng:
- Nước non vẫn nước non nhà, cảnh còn như cũ người đà khác xưa, làm sao khỏi cảm động bùi ngùi cho được!

Bèn ngồi tựa vào bức lan can trên cầu, ôm đàn gẩy mấy bài Nam cung, mấy điệu Thu tứ. Một lúc nàng bỏ đàn đứng dậy nói rằng:
- Giải niềm u uất, muốn mượn tiếng đàn; song điệu cao ý xa, đời làm gì có kẻ tri âm hiểu được cho mình, chẳng bằng về cho sớm còn hơn.

Trung Ngộ liền bước rảo tới trước mặt nàng, vái chào mà rằng:
- Chính tôi là người tri âm mà nương tử đã không biết đấy.

Người con gái giật mình nói:
- Vậy ra chàng cũng ở đây ư? Thiếp đã từng nhiều lần được chàng đoái tới, ơn ấy thật vẫn ghi lòng. Chỉ vì ở đường sá vội vàng, không tiện tỏ bày chung khúc. Giờ nhân đêm vắng, dạo bước nhàn du, không ngờ chàng lại đã đến trước ở đây. Nếu không phải duyên trời, sao lại có sự gặp gỡ may mắn như vậy. Song hạt châu hạt ngọc ở bên, thiếp chẳng khỏi tự xét thấy mình nhơ bẩn, thực thấy làm e thẹn vô cùng.

Chàng hỏi họ tên và nhà cửa. Nàng chau mày nói:
- Thiếp họ Nhị tên Khanh, là cháu gái của ông cụ Hối, một nhà danh giá trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn hàn. Mới đây bị người chồng ruồng bỏ, thiếp phải dời ra ở bên ngoài lũy làng. Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa.

Hai người bèn đưa nhau xuống dưới thuyền, người con gái sẽ bảo chàng rằng:
- Thân tàn một mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa.

Bèn cùng nhau ân ái hết sức thỏa mãn. Nàng có làm hai bài thơ để ghi cuộc hoan lạc như sau:

I
Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì,
Tu đối tân lang ngữ biệt ly.
Ngọc duẩn chỉnh tà châu xuyến tử,
Hương la thoát hoán tú hài nhi.
Mộng tàn bán chẩm mê hồ điệp,
Xuân tận tam canh oán tử quy.
Thử khứ vị thù đồng huyệt ước,
Hảo tương nhất tử vị tâm tri.

Dịch:

Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu,
Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu.
Măng ngọc (2) vuốt ve nghiêng xuyến trạm,
Dải là cởi tháo trút hài thêu
Mộng tân gối bướm bâng khuâng lạc,
Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu.
Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy,
Vì nhau một thác sẵn xin liều.

II
Giai kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu
Túy bão ngân tranh bát phục khiêu...
Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế,
Kim thuyền kỳ phạ thúc tiêm yêu.
Yên thư đường ngạc hồng do thấp,
Hãn thối mai trang bạch vị tiêu.
Tảo vãn kết thành loan phượng hữu,
Phong thần nguyệt tịch nhiệm chiêu yêu.


Dịch:

Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài,
Ôm tranh nhẹ bấm một đôi bài.
Đầu cài én ngọc (3) hình nghiêng chếch,
Lưng thắt ve vàng (4) dáng ỏe oai.
Đường (5) lúc nở rồi hồng đượm ướt,
Mai khi rã hết trắng chưa phai.
Phượng loan sớm kết nên đôi lứa,
Gió sớm giăng khuya thỏa cợt cười.


Trình vốn là lái buôn, biết ít chữ nghĩa nên nàng giải nghĩa rõ ràng cho hiểu. Trung Ngộ rất khen ngợi mà rằng:
- Văn tài của nàng, không kém gì Dị An (6) ngày xưa.

Nàng cười mà rằng:
- Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nắm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những người hay chữ như Ban Cơ, Sái Nữ (7) nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt.

Trời gần sáng, nàng từ biệt ra về. Từ đấy đêm nào họ cũng đến với nhau. Trải hơn một tháng, bọn bạn buôn có người biết chuyện bảo với Trung Ngộ rằng:
- Bác ở chỗ đất khách quê người, nên biết giữ mình thận trọng, xa lánh những sự hiềm nghi. Chớ nên giở nết gió trăng quyến phường hoa liễu. Như người con gái ấy chẳng tường duyên do gốc gác, nếu không là cô ả nũng nịu ở chốn buồng thêu, thì tất cũng dì bé yêu chiều ở nơi gác gấm. Nay bác cứ như vậy, lỡ một sớm cơ sự khó giấu, thanh tích lộ ra, trên thì bị hình pháp lôi thôi, dưới không có họ hàng cứu giúp, bấy giờ thì bác tính thế nào. Chi bằng đã trót gian díu thì nên tìm đến gốc tích nhà cửa, rồi hoặc ruồng bỏ như Xương Lê với nàng Liễu Chi (8) hoặc đèo bòng, như Lý Tĩnh với nàng Hồng Phất (9), thế mới là kế vạn toàn được.


Trung Ngộ khen phải, rồi một hôm chàng bảo với nàng:
- Tôi vốn là một người viễn khách, tình cờ kết mối lương duyên, nhưng đối với giai nhân, cửa nhà chưa rõ, tung tích không tường, trong bụng rất lấy làm áy náy.

Nàng nói:
- Nhà thiếp vốn không phải xa xôi là mấy. Nhưng nghĩ chúng mình gặp gỡ, chẳng qua là một cuộc riêng tây. Chỉ thuyền quyên ghen ghét, tai mắt nghi ngờ, đánh vịt mà kinh uyên, đốt lan mà héo huệ. Cho nên thà mang sao mà đến, đội nguyệt mà về, khỏi để mối lo cho lang quân đó thôi.

Song Trung Ngộ cố nài; nàng cười mà rằng:
- Chỉ vì nhà thiếp xấu xa, nên hổ thẹn mà muốn giấu giếm. Nhưng nay chàng đã cố muốn biết, vâng thì thiếp xin đưa về.


Rồi đó canh ba, đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen trời tối, hai người cùng đi đến Đông thôn. Khi đến một chỗ, chung quanh có bức hàng rào bằng gióng tre, thỉnh thoảng chen lẫn vào vài khóm lau khô, trong có túp nhà gianh nhỏ lụp sụp, dây bìm leo đầy lên vách và lên mái, nàng trỏ bảo chàng rằng:
- Đây, nhà của thiếp đây, cứ đẩy cửa vào ngồi chơi để thiếp đi kiếm cái lửa.

Trình cúi đầu qua dưới mái gianh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu. Đương kinh ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà có bóng đèn sáng. Chàng trông vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề vào mấy chữ "Linh cữu của Nhị Khanh". Cạnh cữu có người con gái nặn bằng đất tay ôm cây hồ cầm đứng hầu.

Trung Ngộ thấy vậy, sởn gai, dựng tóc, tất tả nhảy choàng ra khỏi cái nhà ấy. Song chàng vừa chạy thì người con gái đã cản đường mà bảo:
- Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn hò nhau. Xin sớm theo nhau đi, cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về.

Nói rồi nàng sấn lại nắm vạt áo chàng. Nhưng may vạt áo cũ bở, chàng giật rách mà chạy được thoát; về đến cầu Liễu Khê, hầu như kẻ mất hồn không nói được nữa.


Sáng hôm sau nhân đến Đông thôn hỏi thăm, quả có người cháu gái của ông cụ Hối, mới 20 tuổi, chết đã nửa năm, hiện quàn ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng. Từ đấy Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Còn Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường ứng đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây thừng trói lại thì chàng mắng:
- Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo chứ không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được; can dự gì đến các người mà dám đem dây trói buộc ta thế này.


Một đêm, người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung Ngộ. Họ vội đến Đông thôn tìm, thấy chàng đã nằm ôm quan tài mà chết, bèn phải thu liệm chôn ngay ở đấy. Từ đó về sau, phàm những đêm tối trời, người ta thường thấy hai người dắt tay nhau đi dạo, khi thì hát, khi thì khóc. Hai người thường bắt người ta phải khấn cầu lễ bái, hễ hơi không được như ý thì làm tai làm vạ. Người làng đấy không thể chịu được mọi nỗi khổ hại, họ bèn đào mả phá quan tài của chàng, rồi cùng cả hài cốt của nàng, vứt bỏ xuống sông cho trôi theo dòng nước.


Trên bờ sông ấy có một cái chùa, chùa có cây gạo rất cổ tương truyền là đã sống được hơn trăm năm. Linh hồn của hai người bèn nương tựa vào cây gạo ấy làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành lá cây gạo thì dao gẫy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được.


Trong năm Canh Ngọ (1330) niên hiệu Khai Hựu nhà Trần, có vị đạo nhân một đêm vào nằm ngủ trong cái chùa ấy. Giữa lúc sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai gái, thân thể lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn, một lát, đến gõ thình lình gọi hỏi trong chùa. Đạo nhân cho là đôi trai gái lẳng lơ đêm trăng dắt nhau đi chơi, khinh bỉ cái phẩm cách của họ, nên cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng. Sáng hôm sau, đạo nhân đem sự việc trông thấy thuật chuyện với một ông già trong thôn mà phàn nàn sao dân phong tồi tệ như vậy. Ông già nói.
- Ngài không biết, đó là giống yêu quỷ, chúng đến ở nay trên cây gạo đã mấy năm nay; ước sao có thanh kiếm trừ tà, để trừ cho dân chúng tôi giống yêu quỷ ấy.

Đạo nhân trầm ngâm một lúc lâu rồi nói.
- Ta vốn lấy việc cứu giúp mọi người làm nhiệm vụ, cái việc mắt ta trông thấy, nếu chẳng đem pháp thủ ra tức là thấy người chết đuối mà không cứu vớt.


Rồi đạo nhân vời họp người làng, lập một đàn tràng cúng tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn một đạo đốt ở giữa trời, đoạn quát to lên rằng:
- Những tên dâm quỷ, càn rỡ đã lâu, nhờ các thần linh, trừ loài nhơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành.


Một lúc, mây gió nổi lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy nhau, dưới sông thì sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây gạo đã bị nhổ bật, cành cây gẫy nát và bị tước như tước dây vậy. Kế nghe thấy trong không có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông có sáu bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi.

Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân, nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả.

-------------------------

Lời bình:

Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là một gã lái buôn không có tri thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia vì người trừ hại, công đức lớn lao; nhà bình luận công bằng sau này, phải nên biết đến. Không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay, ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa người quân tử trung hậu đối với người khác.
------------------------

(*) Nguyên văn: Mộc miên thụ truyện.
1. Chợ Nam Xang: chợ ở huyện Nam Xang tức huyện Lý Nhân, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
2. Măng ngọc: ngón tay.
3. é ngọc: chiếc thoa cài đầu chạm hình con chim én.
4. Lưng thắt ve vàng: lưng mỹ nhân thon, chẽn lại như lưng con ve.
5. Đường: hoa hải đường, thường ví với vẻ đẹp của thiếu nữ.
6. Dị An: Lý Thanh Chiếu, vợ của Triệu Minh Thành, Lý Cách Phi, người đất Tế Nam, có tài văn thơ, đặc biệt là thể từ, được coi là một đại thi gia đời Tống. Dị An cư sĩ là tên hiệu, bà có tập Thấu ngọc từ còn truyền ở đời.
7. Ban Cơ: tên là Chiêu, em gái Ban Siêu đời Hán, có tài học, triều vua Hòa đế được triệu vào cung để dạy học; các hoàng hậu, quý nhân đều phải thờ làm thầy. Có làm ra 7 thiên Nữ giới và làm tiếp sách Hán thư.
Sái nữ : là nàng Sái Diệm, con gái Sái Ung đời Hán, có văn tài và hiểu âm luật, làm ra 18 khúc hát Hồ già.
8. Hàn Dũ là một văn hào làm quan đời Đường được phong là Xương Lê bá. Hàn có hai người nàng hầu là Giáng Đào và Liễu Chi. Khi Hàn đi vắng, Liễu Chi bỏ trốn, người nhà đuổi theo bắt về được. Sau Hàn về, chỉ yêu dấu Giáng Đào và ruồng bỏ Liễu Chi.
9. Hồng Phất: phất trần đỏ, tên thật là Ứng Trần hầu thiếp của Dương Tố đời Đường. Nàng có nhan sắc và hay chữ; khi đứng hầu thường cầm phất trần đỏ nên thành tên. Một lần Lý Tĩnh vào thăm Dương Tố, Hồng Phất đưa mắt nhìn quyến luyến. Đêm đó nàng mặc áo tía, đội mũ trốn đến nhà Lý Tĩnh gõ cửa. Tĩnh mời vào nàng cởi bỏ áo mũ nói: "Thiếp là người cầm phất trần đỏ ở nhà họ Dương đây mà, xin đem thân cát đằng nương bóng tùng quân". Rồi hai người đưa nhau lên Thái Nguyên kết làm vợ chồng

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
hoa_cuc