Huế ngàn nỗi nhớ
Thế kỷ vừa khơi đã của nhau
Lìa quê công chúa bước chân sầu
Đổi tên Ô-Rí qua Thuận Hóa
Thành lũy xây 50 năm sau
Sóng nước chia nhau phủ bốn bề
Giữa thành sừng sững áng mây che
Đan Điền, sông cả vươn tây ngạn
Chằm lớn, Kim Trà, nam chảy qua
Nguyễn Hoàng vượt thoát năm Mậu Ngọ,
Ngược giòng Thạch Hãn vào Ái Tử,
Gần trăm năm sau, đời Thượng Vương
Phú Xuân được chọn xây dinh chúa
Trịnh-Nguyễn phân tranh, xé sơn hà
Sông Gianh rạch kiếm cắt xương da
Đàng Trong, Võ Vương đúc quốc tỷ
Đàng Ngoài, chúa Trịnh hiếp vua Lê
Giáp Ngọ, quận công Hoàng Ngũ Phúc
Binh hùng tướng hổ kéo vào nam,
Quyền thần tham ô Trương Phúc Loan
Đẩy cõi Đàng Trong gần suy sụp
Phú Xuân lọt vào tay họ Trịnh,
Đến khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh,
Tây Sơn ầm ầm kéo binh lên
Nhờ nước triều dâng tràn chiếm lĩnh.
Tây Sơn chẳng được bao nhiêu năm,
Quang Toản bị thua chạy ra Bắc,
Nguyễn Ánh vào sửa sang kinh thành
Từ bắc chí nam màu thống nhất
...
Sông Kim Trà nay là sông Hương
Phú Xuân được gọi tên là Huế
Đông Ba, Vỹ Dạ, ngõ Âm Hồn,
Mỗi một địa danh, ngàn nỗi nhớ
Phạm Thế Định
0o0
Quảng Nam
Gió Thái còn mang giọng tiếc Hời
Tháng Năm mưa chẳng tới ngàn khơi
Trường Sơn vách thẳng trông ra biển
Đâ’t rộng về Nam mở cõi ngoài
Phía bắc, mây mù giăng Hải Vân
Phương tây, nguồn đổ nhánh vô ngần,
Nguồn Cái, nguồn Con … ghềnh thác xiết,
Mưa mùa gió bấc nước lên nhanh.
Tam Kỳ xuôi giòng đua Vu Gia
Thu Bồn, Cẩm Lệ cũng theo qua
Trường Giang hợp sức về gây lụt
Phố Hội lèn chân đá chống nhà
Tiếp nối nhà Trần, Hồ Quí Ly
Dân lành từ Bắc rủ nhau đi
Vào miền đất Hóa xây cơ nghiệp
An Phủ quan lo chuyện vỗ về
Qua đời Hồng Đức, Lê Thánh Tôn
Đại thắng Trà Toàn, đưa ba ông
Vua Chàm trị đất Chàm 3 mảnh
Đạo Quảng Nam tươi đẹp nét rồng
Nguyễn Hoàng từ dạo vào Ái Tử
Tài cao đức rộng dân yêu quí
Bước tiến người Việt mãi dọc ngang
Dồn người Chiêm Thành vào thế bí
Đến đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát
Hà Tiên, Rạch Giá, Thủy Chân Lạp
Mấy mối thu vào trong một tay
Tiếng Việt nói từ Nam ra Bắc
Hội An cảng thông thương xứ ngoài,
Khách buôn Hòa Lan, Tây, Hoa, Nhật…
Chùa Cầu ghi dấu một thời qua
Thuyền lớn, thuyền bé vào tấp nập
Kịp khi Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn
Chia nước Việt ra hăm ba (23) trấn
Riêng khu kinh kỳ có 4 doanh
Bình, Ngãi, Phú, Nam nằm gần cạnh
Minh Mạnh đổi trấn, doanh thành tỉnh
Từ đó thành ra tỉnh Quảng Nam
Ngàn thu trăng chiếu Trường Sơn cũng
Chiếu cả hồn xưa: Việt nối Chàm.
Phạm Thế Định
0o0
Bình Định
Trời đất bầy hình thế ngọa long
Đại dương nuôi chí cả anh hùng
Bắc ra Quảng Ngãi, nam Phú Khánh (Yên)
Tây sát núi rừng, đông biển Đông
Mưa từ tháng Mười qua tháng Giêng
Ba sông chuyển nước chảy rơi triền
Sông Côn cuốn lũ hòa sông Lại
Hợp cùng La Tinh đồng dấy lên
Cuối thiên niên Một, vua nước Chàm
Dời triều đình cũ từ Mỹ Sơn
Về đây, núi biển thay thành quách
Đồ Bàn lập kinh đô phía nam
Giáp Thân, Toa Đô tướng Mông Cổ
Một trăm ngàn binh nhiều thủy quân
Thị Nại kéo thuyền vào uy hiếp,
Quân Chàm đánh cho chạy mất biệt.
Hiển hách một thời Chế Bồng Nga,
Giết Trần Huệ Tông, nhập Bắc Hà
Lửa rực Thăng Long mùi chiến địa
Anh hùng tuyệt mạng, uất bay xa
Hận thù quyết trả cho xong nợ,
Trà Toàn đem quân phá châu Hóa
Vua Lê đánh chiếm cả Đồ Bàn,
Một nước cờ sai tiêu nghiệp cả
Đồ Bàn đổi tên là Hoài Nhơn
Ba trăm năm sau nẩy Tây Sơn
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ cùng Nguyễn Huệ
Cả nước bừng theo nhịp trống dồn.
Miền Nam vừa chịu họa Xiêm La
Tổng Tôn hùng hổ kéo binh qua
Quang Trung đúng hẹn ngày thắng trận
Thanh đế Càn Long nhận chiếu hòa
Mệnh trời đã để Nguyễn Gia Miêu
Triều chính Tây Sơn cảnh chợ chiều,
Trường Trầu, bến cũ, ngàn thu hận,.
Khói oán, trăng tàn, tiếng quạ kêu
Gia Long thống nhất cả sơn hà
Bình Định là tên mới đặt ra
Trước doanh, rồi trấn, sau thành tỉnh
Lấp chuyện máu xương, mộng thái hòa
Thành phố chạy dài ra Thị Nại
Lấy tên tiên chúa gọi Qui Nhơn
Chiều hôm sóng vỗ từ bao ngả
Qui lại về đây vạn tiếng buồn.
Phạm Thế Định
0o0
Phú Yên
Kể từ thưở vua Lê chiến thắng
Đoạt Đồ Bàn, lấn mạnh vào nam
Cù Mông biên giới rõ ràng
Đất Nam bên ấy, đất Chàm bên kia (1)
Hận vong quốc tràn trề sông núi
Người Chiêm còn tiếc nuối ngàn xưa
Bới tro chưa rụi lửa thù
Voi lồng, ngựa hí, bụi mù bước quân
Tiếng sắt thép lấn phần quan ải
Nguyễn Hoàng sai đánh tới thành Hồ,
Lương Văn Chánh kéo quân vô, (2)
Mộ dân lập ấp đắp bờ khai hoang
Từ Thanh-Nghệ lần sang Thuận-Quảng
Dân di cư chân rắn đá mềm,
Bên Sông Đà Diễn đêm đêm
Tiếng ru đất mẹ giọng hiền dân ca
Thế nước lũ tràn qua chỗ cạn
Chốn biên cương chạm trán địch-ta
Thắng xong Chúa đặt Tuy Hòa,
Đồng Xuân hai huyện, hợp là Phú Yên
Quân Chàm lại hưng binh tái chiến,
Nhưng thua to, chạy đến Phan Rang
Nước Nam thêm đất vững vàng
Ninh Hòa, Diên Khánh tên mang hiện giờ (3)
Thế chiến quốc cõi bờ chưa ổn
Trịnh-Nguyễn còn bề bộn can qua
Thồ Lồ dân núi Bana
Đem quân hợp sức cùng nhà Tây Sơn,
Cho đến lúc Qui Nhơn thất thủ
Gia Long về gồm tụ cơ đồ
Thế cờ xếp lại, ngàn thu
Còn trơ Tháp Nhạn sững sờ, hoang mang.
Phạm Thế Định
0o0
(1) Tháng 6-1471, vua Lê Thánh Tông đặt 3 phủ: Thăng Hoa (nay là Quảng Nam), Tư Nghĩa (nay là Quảng Ngãi) và Hoài Nhơn (nay là Qui Nhơn), còn phần đất từ Cù Mông đến Đèo Cả vẫn là vùng đất Kimi
(2) Năm 1578, người Chiêm tiến hành việc xâm lấn biên cảnh, Lương Văn Chánh đem quân đánh chiếm thành Hồ.
Năm 1597, Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh được trao nhiệm vụ chiêu tập dân Chiêm khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Bà Đài và đưa lưu dân từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam ... vượt đèo Cù Mông vào đất Trấn Biên; khai hoang ở trên dưới triền sông Đà Diễn (nay là sông Đà Rằng), chia lập thôn, ấp.
(3) Năm 1653, đời chúa Nguyễn Phúc Tần, vua Chiêm Thành là Bà Tấm đưa quân xâm lấn Phú Yên. Chúa sai cai cơ Hùng Lộc (không rõ họ) làm thống binh, xá sai Minh Võ làm tham mưu, đem 3000 quân đi đánh. Quân chúa Nguyễn vượt đèo Hổ Dương (núi Thạch Bi) đánh thẳng vào thành địch. Bà Tấm bỏ chạy, đại quân chúa Nguyễn tiến đến sông Phan Rang, Bà Tấm sai con là Xác Bà mang thư xin hàng, chúa y cho. Chúa Nguyễn lấy đất mới thu được đặt làm dinh Thái Khang (sau đổi là Bình Khương, tức là Ninh Hòa ngày nay) và Diên Ninh (tức là Diên Khánh ngày nay) và kể từ đây vai trò Trấn biên của Phú Yên xem như đã chấm dứt.
(Theo Địa chí Phú Yên)
Gửi ý kiến của bạn