Phật Đạo
Mỗi
chúng sanh sinh ra là bước trên một cuộc hành trình, mà theo đạo Phật thì đó là
sáu con đường luân hồi lục đạo mà chúng sanh cứ luẩn quẩn ở trong đó vì bị che
lấp bởi màn vô minh dầy đặc, cho đến khi nào phát tâm Bồ Đề quyết đi ngược lại dòng sinh tử, thì đó là
bước trên con đường Phật đạo giải thoát khỏi đau khổ phiền não. Đương nhiên là
đi ngược lại dòng nước bao giờ cũng khó khăn, phải tận dụng rất nhiều công
phu cũng như chí nguyện kiên cường mới qua được.
Bồ Tát là người đang đi trên con đường giác ngộ, là mẫu người lý tưởng của Phật giáo Đại thừa, lấy sự hành trì sáu hạnh ba la mật và tâm nguyện rộng lớn tự độ, độ tha để tiến đến Phật quả. Vì thế người ta thường nghĩ đến Bồ Tát như một vị thánh nhân ở trong cảnh giới thanh tịnh, luôn làm tất cả những việc lành để cứu độ chúng sinh.
Nhưng trong kinh Duy Ma Cật khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi thế nào là Bồ tát thông đạt Phật Đạo, ngài Duy Ma Cật đã trả lời như sau:
“Bồ Tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật đạo.”
Và ngài Duy Ma Cật đã giải nghĩa như sau về phi đạo:
“Gây năm tội vô gián mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỷ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không chướng giận; hiện làm bỏn xẻn mà luôn luôn xả bỏ; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều tâm; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới; hiện làm lười biếng mà vận siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh luôn luôn nhún nhường; hiện làm phiền não mà tâm thường thanh tịnh; hiện làm tàn tật mà vẫn đầy đủ tướng tốt; hiện làm giầu có mà xem là vô thường, không tham đắm; hiện vào tà tế mà dùng chánh tế độ sanh; hiện vào khắp các đạo để đoạn dứt nhân duyên; hiện vào Niết Bàn mà không bỏ sanh tử. “
Điều ấy có mâu thuẫn
không?
Thông thường chúng ta hay
có thói quen phán xét, phân biệt phải trái, đúng sai. Chúng ta đánh giá một người qua bề ngoài của người đó,
ít khi biết đến thực chất bên trong như thế nào, và thường hay xếp loại con người
theo một mẫu mực nào đó, đôi khi rất bất công và phi lý. Cái nhìn đúng
thực của chánh kiến là cái nhìn thấu suốt bao trùm mọi mặt, không phân biệt đối
đãi, vì tất cả vạn pháp đều khởi từ một nguồn mà ra. Thiện và Ác tuy đối lập với nhau nhưng
đều phát xuất từ Không, nên bản chất là cùng một tánh Không như
nhau. Thiện ác trong tâm, cũng như tất cả mọi sự trên thế
gian này, đều là vô thường. Một người làm thiện bỗng có thể trở thành ác, cũng
như người làm ác khi biết hối hận sẽ thay đổi hẳn để trở thành người thiện. Từ nguồn tâm địa của con người luôn luôn khởi lên một lúc biết bao nhiêu
niệm Thiện và Ác, và tùy theo nhân duyên mà tạo ra những nghiệp khác nhau. Động
cơ tạo nghiệp chủ yếu là sự chấp kiến, chấp ngã, nhận ngũ uẩn làm thật, nên mọi
việc làm, lời nói hay tư tưởng đều hướng về lợi ích cá nhân.
Bồ Tát là người không còn chấp tướng, chấp ngã, trong tâm không mưu tính mong cầu, cũng không cho mình là Bồ Tát, không thấy tướng mình, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, nên mọi việc đều làm với tâm không lặng, trong sáng, có độ người cũng không thấy mình là người đang độ, cũng không thấy có người đang được độ, vì không trụ theo cảnh nên dù ở trong cảnh nào vẫn không bị cảnh đó làm cho lung lạc.
Trong “Tuyệt Quán Luận”, Duyên Môn hỏi Nhập Lý như sau:
- Thế nào là Bồ Tát hành phi đạo, mà lại thông đạt được Phật đạo?
Nhập Lý trả lời:
- Không phân biệt thiện ác!
- Thế nào là không phân biệt?
- Đối với mọi pháp đều không sinh tâm.
- Vậy không có người hành động hay sao?
- Chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không có người hành động.
- Vậy không có tri giác hay sao?
- Có tri giác nhưng không có cái ngã.
- Không có ngã, làm sao biết được?
- Cái biết bản chất nó là vô tánh rồi.
Như vậy, nếu làm mọi việc
mà không nẩy sanh ý phân biệt, tuy ở trong cảnh mà không trụ nơi cảnh nên tâm
rỗng rang, vô niệm, không thấy ngã, không thấy tướng, như thế là thông đạt được
Phật đạo.
Trên bình diện tâm, trong
tâm chúng sanh đã tiềm ẩn sẵn tâm Bồ Tát và khi có nhân duyên thích hợp sẽ hiển lộ ra. Điển hình là những hành động
vị tha, quên mình cứu giúp người khi có những tai họa lớn xẩy ra. Ngay cả những người đã tạo ác nghiệp,
khi biết cảnh tỉnh, sám hối lỗi lầm và
dùng kinh nghiệm của mình ra để giúp chuyển hóa người khác , cũng là đang thể
hiện tâm Bồ Tát ấy. Câu nói “ Đồ tể khi buông dao, cũng có thể lập địa thành
Phật” chỉ cho ta thấy tâm Phật, hay tánh Phật vốn luôn luôn có sẵn nơi tâm
chúng sanh, và lúc nào cũng trong sáng thanh tịnh dù chúng sanh ấy có tạo ác
nghiệp như thế nào chăng nữa.
Duy Ma Cật dịch ra tiếng Hán là “Tịnh Danh”,
phải chăng muốn nói đến tánh thanh tịnh này, và kinh Duy Ma Cật chủ yếu là muốn
khai thị cho chúng ta thấy trong thân phàm hoại diệt, vô thường này đã có sẵn
thân thanh tịnh không hoại diệt, mà vì chấp kiến, chấp tướng nên ta không thể
thấy được sự hiện hữu đồng thời ấy. Vì vậy, Duy Ma Cật tuy hiện thân như một cư
sĩ mà bên trong đầy đủ giới hạnh như một
vị sa môn, làm tất cả những việc thế gian mà không hề dính nhiễm thế gian, và
thị hiện có bệnh tật để khai thị cho ta thấy thân tứ đại bệnh tật, vô thường
huyễn ảo này là đáng nhàm chán, không nên chấp trước bám víu vào, mà nên phát
tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác thì sẽ ngộ nhập được Pháp thân tiềm ẩn luôn
luôn thanh tịnh không hoại diệt.
Trên phương diện cứu độ chúng
sanh, chính ở nơi những con người đau khổ nhất mới cần đến sự hóa độ của Bồ
Tát. Sự đau khổ cũng đi liền với ác nghiệp, nói cách khác là những hành động
“phi đạo”. Bồ Tát với hùng lực của đại
nguyện vào trong những cảnh giới phi đạo để cứu độ những chúng sanh đau khổ, và
chỉ khi ở trong phi đạo, nói cùng một ngôn ngữ, chia xẻ cùng một tâm trạng với
những chúng sanh đó, mà sự cứu độ của Bồ Tát mới có hiệu quả. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”,
sự thanh tịnh thuần khiết thường không hấp dẫn những tâm hồn uế trược, nên khi
một con người hiện tướng như uế trược sẽ
có được sự giao cảm đối với những người trong cảnh giới đó mà chuyển hóa cho
họ. Ví như muốn đô các chúng sinh ở trong tù thì phải vào ở trong tù, muốn độ
người say sưa rượu chè cờ bạc thì phải đến chốn rượu chè cờ bạc mới tiếp cận
được với họ. Đức Bồ Tát Quan Thế Âm được cho là đã hóa thân thành muôn vàn
chúng sanh trong mọi cõi giới từ người đến thú để tùy theo nhân duyên mà cứu độ
cho họ.
Trong kinh Phàp Cú, Đức Phật đã nói như sau:
“Như bông hoa tươi đẹp thơm ngát mọc lên từ bùn lầy rác rưởi, người giác ngộ chiếu sáng trí tuệ của mình giữa những cấu uế và vô minh. Hãy sống tươi vui, không hận thù giữa những hận thù. Sống hạnh phúc, không đau khổ giữa những đau khổ. Sống an lạc, không tham lam giữa những tham lam.”
Điều này cũng đưa đến câu hỏi thứ hai trong phẩm Phật Đạo mà ngài Duy Ma Cật đã đặt ra cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
- Thế nào là hột
giống Như Lai?
Văn Thù Sư Lợi trả lời:
Có
thân là hột giống; vô minh có ái là giống; tham, sân, si là giống; bốn món điên
đảo là giống (chấp thường, chấp lạc, chấp ngã, chấp tịnh); năm món ngăn che là
giống (tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối, nghi pháp); sáu nhập là giống;
bẩy chỗ thức là giống ( sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô biên xứ
thiền, thức biên xứ thiền, vô sở hữu xứ thiền); tám pháp tà là giống (tà kiến,
tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định); chín
món não là giống (phiền não khi bản thân, người thân bị quấy nhiễu, hay khi
thấy kẻ thù được khen ngợi, trong quá khứ, hiện tại và tương lai); mười điều
bất thiện là giống; nói tóm lại 62 món tà kiến và tất cả phiền não đều là giống
Phật cả.
Ông Duy Ma Cật hỏi:
- Tại sao thế?
- Nếu người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết bàn) thời không thể còn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể sinh hoa sen, mà nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen, Như thế, người thấy vô vi, vào chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, mà ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh nghĩ đến Phật pháp mà thôi. Lại như gieo hột giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mớt tốt tươi được. Như thế, người đã vào vô vi chánh vị không sanh được trong Phật pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu di còn có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền não là giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo châu vô giá, cũng như không vào biển cả phiền não thời làm sao mà có ngọc báu "nhứt thiết trí".
Như Lai là người đã đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là đã có tri kiến Phật thấu suốt khắp trong ngoài, đạt đến chỗ rốt ráo trên con đường Phật đạo. Có những người đã đạt đến cảnh giới vô vi, tâm lúc nào cũng không lặng không còn cảm xúc trước trần cảnh, hoặc đạt đến một mức độ an lạc nào đó cho là đủ, nên rốt cuộc là bị kẹt ở trong cảnh giới đó, không có chí nguyện kiên cường muốn tiến thêm để thành tựu đạo quả. Đó là những người đã đạt đến “đầu sào trăm thước” và tưởng đó là cứu cánh, nhưng thật ra phải “bước thêm một bước” thì mới thấy được “Thế giới hiện toàn chân”. Vì thế, chính những con người bình thường với đủ mọi vô minh, ái dục, tham sân si, những điều bất thiện, phiền não trong tâm lại có cơ may hơn để phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nếu sinh ra may mắn có cuộc đời vui vẻ, hạnh phúc, người ta thường bám víu lấy cuộc sống đó và ít khi muốn sự thay đổi. Tuy nhiên, vô thường là luật của cuộc sống, và sự đau khổ phiền não tất yếu do vô thường mang lại sẽ là một động cơ khiến con người muốn đi tìm con đường giải thoát. “Phiền não sanh Bồ Đề” - nếu không gặp những sự đau khổ phiền não, con người khó thức tỉnh mà phát tâm Bồ Đề, quyết đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác để chấm dứt phiền não, xa lìa sinh tử. Tổ Đạt Ma nói:
“Mọi phiền não đều là hạt giống của như lai, bởi vì sự đau khổ phiền não khiến cho con người đi tìm sự hiểu biết của trí huệ. Nhưng chỉ nói rằng phiền não sanh như lai, chứ không thể nói phiền não là như lai được. Tâm thân này là ruộng điền, phiền não là hạt giống, trí huệ là cái mầm nẩy lộc, và như lai là lúa thóc thu hoạch được.”
Biểu tượng của người giác
ngộ trong đạo Phật là cành hoa sen vươn lên từ bùn lầy. Hoa sen chỉ mọc lên
được từ bùn, và đã phải chôn vùi trong chốn bùn nhơ trước khi vươn lên cao để
kết thành hoa rực rỡ thơm ngát. Như trong kinh nói: “Hột giống gieo trên hư
không thì không thể sinh sôi nẩy nở, phải ở đất phân bùn mới tốt tươi được.”
Nhưng nếu không có sẵn “tánh sen” ở nơi cây sen, thì bùn cũng chẳng thể nào làm cho hoa sen nở được. Cũng vậy, nếu tánh Phật không có sẵn nơi chúng sinh, dù có tu bao nhiêu kiếp cũng không thể thành Phật. Tánh Phật chính là tánh chúng sinh, bởi vì Phật và chúng sinh là một, khi mê là chúng sinh, lúc ngộ rồi là Phật. Như đóa hoa sen dù đã nở ra tươi đẹp nhưng cây vẫn cắm sâu nơi vũng bùn, người giác ngộ Phật cũng chẳng hề thay hình đổi dạng, mà vẫn sống cuộc sống bình thường trong chốn trần lao. Và chính trong những cảnh đời khổ lụy tiếp cận hàng ngày, mà tâm Phật mới cơ duyên để phát huy rộng lớn, kiên cố thêm nguyện lực để tự độ độ tha, tự giác giác tha.
Chân Thường
(mạn bàn về Phẩm Phật Đạo trong kinh Duy Ma Cật)