Phật giáo khí công tuy khởi nguyên ở Ấn Độ nhưng sau khi
truyền nhập vào Trung Quốc thì kết hợp với văn hóa truyền
thống Trung Quốc, đặc biệt là sự dung hợp giữa Phật
giáo tu thiền với dưỡng sinh Trung Quốc, khiến cho tu thiền càng
có công dụng dưỡng sinh bảo vệ sức khỏẹ
Có nhiều phương pháp luyện công nổi tiếng như Thiên Thai chỉ
quán (Trí Nghỉ chỉ quán liệu pháp), Đạt Ma quán bích liệu pháp,
Chánh giác mặc chiếu thiền pháp, Ngũ môn thiền đối trị pháp,
Du già minh tưởng thuật … Dưới đây giới thiệu một số
phương pháp khí công đơn giản dễ học, hiệu quả
ĐẠT MA THAI TỨC LIỆU PHÁP
Kinh Phật ghi rằng, có một lần, Phật Thích Ca hỏi các sa môn: “Sinh mệnh con người ở trong khoảng nàỏ”. Một vị đáp rằng: “Ở trong khoảng vài ngày”. Phật nói: “Ngươi chưa thể đắc đạo”. Lại hỏi một sa môn khác, vị này trả lời : “Trong khoảng ăn uống”. Phật nói “Ngươi chưa thể đắc đạo”. Lại hỏi một vị khác. Trả lời : “Trong khoảng hơi thở, khí ra mà không vào, khí vào mà không ra”. Phật khen “Lành thay, ngươi có thể gọi là đắc đạo”.
Rõ ràng, hô hấp là cơ sở để duy trì sinh mệnh co ngườị
Phật giáo cho rằng: “mệnh” bao quát ba yếu tố là Tho., Ái và Thức. “Câu xá luận” quyển 5
viết : “Gốc của mệnh là thọ có thể tri ái và thức”. Sinh tử
nối tiếp nhau gọi là: “thọ”, hoạt động của sinh lý gọi là “ái”,
hoạt động của tâm lý gọi là “thức” . Hô hấp liên kết cả 3
yếu tố ấy lại thành một thể mà hình thành sinh mệnh.
“Thai tức pháp” là phép hô hấp để rèn luyện và điều chỉnh
hơi thở, tương truyền phép này là do Bồ Đề Đạt Ma truyền
lạị “Thai tức” bao gồm 2 loại là Bế tức và Điều tức. Bế
tức là rèn luyện ngưng thở để tạo năng lực kéo dài hơi
thở, có thể ngưng thở với thời gian lâu; Điều tức là thông
qua ý thủ nhập tĩnh, tĩnh thần giáp tức. Cả hai đều có công
dụng làm tích tụ nguyên khí trong cơ thể từ đó có thể từ đó
có thể cường thân trị bệnh, diên niên ích thỗ
Cách tập:
Bế tức pháp:
Mỗi ngày vào giờ tý (11-1 giờ sáng) đến giờ ngọ (11- 1 giờ
trưa) chọn lúc mà luyện, có thể ngồi hoặc nằm, nhắm mắt
tĩnh tâm ngưng thần. Đối với lối sống hiện đại thì nên rèn
luyện 1 lần vào buổi sáng và 1 lần vào lúc sắp ngu?.
Sau khi tâm an, khí tĩnh, thần định, bèn luyện phép bế khi'.
Người mới tập có thể dùng mũi chầm chậm hít vào rồi ngưng
thở đếm thầm từ 1 đến 10 hoặc hơn, đến lúc không nín thở
được nữa thì từ từ thở trọc khí rạ Hít vào hay thở ra
đều phải chú ý đến các yếu tố lâu, dài, nhẹ, êm không
tiếng. Sau khi tu luyện lâu ngày có thể đạt đến đến mức
“để lông hồng trước mũi vẫn không động”.
Điều tức pháp:
Thời gian luyện công giống như trên, ngồi xếp bằng, 2 lòng
bàn tay chồng lên nhau ngửalên, hai ngón cái giao nhau, đưa xuống bụng dưới, trừ tạp niệm, lưỡi
cuốn lên vòm miệng. Trước hết hô hấp tự nhiên lại đến
thầm từ 1 đến 10...lặp đi lặp lạị Sau khi nhập tĩnh, ý thủ
ở đan điều, đổi sang cách thở bụng, hô hấp sâu, nhẹ, dài,
đều để nhập tĩnh ở mức độ cao, hơi thở dần dần rất
chậm. Sau khi luyện không nên cử động mạnh, trước hết phải
xoa mặt, chà tai, dần dần mở mắt, sau đó đứng dạỵ
Luyện bế khí và điều khí không nên gắng gượng mà phải tuần
tự tu luyện. Người có bệnh thần kinh phân liệt, ung thư gan
giai đoạn giữa, bệnh huyết mạch nghiêm trọng thì không nên tập.
ĐIỀU TỨC LIỆU PHÁP
Điều tức là một phương pháp trong ”Điều ngũ sự” của người mới học tu thiền, có lợi cho sức khỏe. Y học Trung Quốc dung nhập điều tức thông qua điều chỉnh hô hấp và bài trừ tạp niệm, khôi phục và tăng cường nguyên khí cơ thể, từ đó khởi tác dụng, khử bệnh, giữ gìn sức khỏe, liệu pháp điều tức của Trung Quốc cổ truyền nhờ đó mà hình thành. Đời Thanh, y học gia nổi tiếng Lý Sĩ Tài có đệ tử là Ưu Thừa đã chép điều tức vào “Thọ thế thanh biên” lưu truyền ở hậu thế.
Cách tập:
Liệu pháp này chủ yếu là vận dụng nguyên lý điều tức nhập
định, khiến cho cơ năng hô hấp và ý niệm tâm lý nương vào
nhau, có thể dùng để trị liệu các chứng hư nhược, bệnh mạn
tính như mất ngủ, suy nhược thần kinh, nội phân tiết thất
điều...đối với người không bệnh cũng có tác dụng tốt cho
sức khỏe.
NHÂN THỊ TỬ TĨNH TỌA LIỆU PHÁP :
Nhân Thị Tử tĩnh tọa liệu pháp là phép tĩnh tọa dưỡng sinh do Tưởng Duy Kiều sáng lập, đây là phép dung hòa giữa phương pháp tu tập của Thiềân tông với công pháp Tiểu châu thiên của Đạo giạ Tưởng Duy Kiều (1872-1958), tự là Trúc Trang, hiệu là Nhân Thị Tử, là nhà khí công nổi tiếng cận đại, ông từng tu tập Chỉ quán pháp của Thiên Thai Tông, mật pháp của Mật Tông và công pháp đạo dẫn “Tiểu châu thiên” cổ đại, tác phẩm của ông có “Nhân Thị Tử tĩnh tọa pháp” rất nổi tiếng lưu truyền sâu rộng.
Cách tập:
Nên chọn nơi tĩnh lặng, đóng cửa để không bị người khác quấy rầy, tùy ý ngồi xếp bằng hay ngồi bình thường trên giường hoặc ghế; mở áo rộng, phần ngực hơi hướng về trước, mông hơi nhô ra sau, khiến cho sống lưng thẳng, bụng dưới vững chắc, hai tay đặt trên chân, lòng bàn tay chồng lên nhau trước bụng dướị Sau đó thân trên hơi lắc nhẹ sang bên trái, phải, đầu giữ thẳng, toàn thân thả lỏng tự nhiên, ý tập trung ở bụng dưới, hơi nhắm hai mắt, hô hấp như thường. Tiếp theo mở miệng thổ trọc khí ra rồi cuốn lưỡi lên vòm miệng, miệng ngậm nhẹ, dùng mũi hít thanh khí, hít thở 7 lần. Thời gian tĩnh tọa tốt nhất là buổi sáng khi ngủ dậy và buổi tối trước khi ngủ, nếu không thì mỗi ngày ít nhất có 1 lần tĩnh tọa khoảng mấy phút trở lên. Sau khi đạt đến một trình độ nhất định, khí trong cơ thể sẽ điều chuyển trong kinh lạc mà sản sinh hiệu ứng “Châu thiên”.
Lúc thâu công từ từ mở mắt, cử động chân tay, không nên vận động mạnh ngaỵ Phép này có công dụng bảo vệ sức khỏe cho người trung lão niên và người cơ thể suy nhược, lại có thể chữa trị cơ năng hô hấp, hệ thống tiêu hóa cùng các bệnh mạn tính, có hiệu quả rất tốt trong việc chữa trị các chứng di tinh, dương suy, trĩ, thoát giang, đầu váng, đau đầu…
(Theo Phật giáo dữ kiện khang, NXB Hắc Long Giang, TQ)